Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm

1. Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm
1.1. Nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
• Việc nhận đơn khởi kiện phải theo đúng thủ tục được quy định tại Điều 167 BLTTDS. Toà án phải có sổ nhận đơn để ghi ngày tháng năm nhận đơn của đương sự làm căn cứ xác định ngày khởi kiện và xem xét thời hiệu khởi kiện còn hay đã hết.
• Sau khi nhận đơn khởi kiện, Toà án phải cấp giấy nhận đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu Toà án nhận đơn khởi kiện gửi qua đường bưu điện, thì Toà án gửi giấy nhận đơn khởi kiện để thông báo cho người khởi kiện biết.
• Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn khởi kiện, Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện phải thực hiện những việc cụ thể sau đây:
- Xác định vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án mình hay không:
+ Xác định vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án căn cứ vào Điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS;
+ Xác định thẩm quyền của Toà án các cấp căn cứ vào các điều 33 và 34 BLTTDS;
+ Xác định thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn, căn cứ vào các điều 35 và 36 BLTTDS;
- Xác định việc khởi kiện có còn thời hiệu khởi kiện hay không căn cứ vào Điều 159 BLTTDS;
- Xác định người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không căn cứ vào các điều 161, 162 và 163 BLTTDS.
• Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án, nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình theo quy định tại Điều 171 BLTTDS.
• Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện biết. Thủ tục chuyển đơn khởi kiện được thực hiện theo quy định tại Điều 37 BLTTDS và hướng dẫn tại mục 6 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NG- HĐTP ngày 31-3-2005.
• Toà án trả lại đơn khởi kiện trong những trường hợp quy định tại Điều 168 BLTTDS.
• Thông báo về việc thụ lý vụ án thực hiện theo đúng quy định tại Điều 174 BLTTDS.
1.2. Chuẩn bị xét xử
Giai đoạn này bao gồm (nhưng không nhất thiết là toàn bộ) các công việc sau:
• Thu thập chứng cứ
• Tiến hành hoà giải
• Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
• Ra một trong các quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
• Phân tích, đánh giá chứng cứ
• Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm
1.2.1. Thu thập chứng cứ.
• Thẩm phán phải tiến hành một số biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ nếu thấy đương sự đã cung cấp và bổ sung tài liệu, chứng cứ nhưng chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án (Điều 85 BLTTDS).
• Chỉ khi đương sự có yêu cầu (yêu cầu này có thể được thể hiện bằng văn bản riêng, có thể ghi trong bản khai, ghi trong biên bản ghi lời khai, biên bản đối chất và nếu đương sự trực tiếp đến Toà án yêu cầu thì lập biên bản ghi rõ yêu cầu của đương sự), Thẩm phán tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ sau:
- Ghi lời khai của đương sự trong trường hợp đương sự không thể tự viết được; lấy lời khai của người làm chứng (xét thấy cần thiết, có thể bảo đảm cho việc giải quyết được toàn diện, chính xác, công minh, đúng pháp lụật), tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau (xét thấy có mâu thuẫn trong các lời khai) (Điều 86 và Điều 88 BLTTDS);
- Thủ tục lấy lời khai phải tuân theo đúng các quy định tại Điều 86, Điều 87 và Điều 88 BLTTDS;
+ Việc lấy lời khai của đương sự phải do Thẩm phán tiến hành; Thư ký Toà án chỉ có thể giúp Thẩm phán ghi lời khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Toà án. Trong trường hợp đương sự không thể đến Toà án được vì những lý do khách quan, chính đáng (đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, ốm đau, bệnh tật...) thì Thẩm phán có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án;
+ Trong trường hợp đương sự là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, hoặc người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện thì khi lấy lời khai của họ phải có mặt người đại diện hợp pháp của họ và người đại diện này phải ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào biên bản ghi lời khai;
- Thu thập chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không tự mình thu thập được. Thẩm phán có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp chứng cứ tài liệu;
- Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung, giám định lại nếu có sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên, hoặc trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo.Thẩm phán cần giải thích cho đương sự biết về nghĩa vụ nộp tiền chi phí tương ứng (chi phí giám định, tiền tạm ứng chi phí định giá...). Thẩm phán chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng, nếu thuộc trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng;
+ Thẩm phán căn cứ vào Điều 90 BLTTDS, Pháp lệnh giám định tư pháp, Nghị định 67/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh giám định tư pháp để ra quyết định trưng cầu giám định;
+ Theo quy định tại Điều 92 BLTTDS, Thẩm phán ra Quyết định định giá tài sản đang tranh chấp nếu một hoặc các bên đương sự yêu cầu, hoặc có căn cứ cho thấy các bên thoả thuận theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí;
+ Thẩm phán xem xét tài sản định giá là loại tài sản nào, có liên quan đến cơ quan chuyên môn nào, Hội đồng định giá cần phải có bao nhiêu thành viên và trong trường hợp cụ thể cần cử đại diện cơ quan nào làm Chủ tịch Hội đồng định giá. Thẩm phán gửi công văn cho các cơ quan chuyên môn đề nghị cử cán bộ làm Chủ tịch và uỷ viên Hội đồng định giá, nêu rõ yêu cầu cụ thể đối với Chủ tịch, uỷ viên Hội đồng định giá và thời hạn cơ quan chuyên môn có công văn trả lời;
+ Sau khi nhận được công văn trả lời, Thẩm phán kiểm tra những người được cử có đáp ứng yêu cầu không, có ai trong số họ là người thân thích với đương sự trong vụ án không, nếu có thì đề nghị cơ quan chuyên môn cử người khác thay thế;
+ Quyết định định giá cần có các nội dung chính: ngày tháng năm ra quyết định và tên của Toà án ra quyết định; tài sản cần định giá; họ tên, cơ quan công tác của Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng định giá; nhiệm vụ của Hội đồng định giá; thời gian, địa điểm tiến hành định giá;
+ Thẩm phán cần cử một thư ký Toà án để giúp việc cho Hội đồng định giá ghi biên bản về việc tiến hành định giá;
+ Trong trường hợp có người cản trở việc định giá thì Thẩm phán yêu cầu đại diện Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức có biện pháp can thiệp, hỗ trợ kịp thời. Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu lực lượng Cảnh sát và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân có thẩm quyền để có các biện pháp can thiệp theo quy định tại Thông tư số 15/2003/TT-BCA(V19) ngày 10/9/2003 của Bộ Công an “Hướng dẫn hoạt động hỗ trợ tư pháp của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ Công an”.
- Thẩm phán tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ nếu thấy cần thiết. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản theo quy định tại Điều 89 BLTTDS;
+ Khi đương sự có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ và xét yêu cầu đó là có căn cứ, Thẩm phán ra quyết định tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ;
+ Quyết định xem xét, thẩm định phải ghi rõ ngày tháng năm ra quyết định và tên Toà án ra quyết định, đối tượng và những vấn đề cần xem xét, thẩm định tại chỗ; thời gian, địa điểm tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ;
+ Quyết định trên phải được gửi cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định kèm theo văn bản đề nghị Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức cử đại diện tham gia. Cần liên hệ để họ có mặt theo ngày giờ đã định trong quyết định. Trong trường hợp vắng mặt một trong các đại diện trên thì Thẩm phán phải hoãn việc xem xét, thẩm định tại chỗ;
+ Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải được giao hoặc gửi cho đương sự để họ biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Nếu có đương sự vắng mặt thì việc xem xét, thẩm định tại chỗ vẫn được tiến hành theo thủ tục chung.
- Về uỷ thác thu thập chứng cứ phải thực hiện đúng Điều 93 BLTTDS
+ Trường hợp đương sự hoặc nhân chứng ở quá xa hoặc bị ốm đau; tài sản tranh chấp ở một huyện, tỉnh khác, thì Tòa án đang thụ lý vụ án có thể uỷ thác cho Toà án huyện nơi ở của đương sự, nhân chứng hoặc nơi có tài sản đang tranh chấp lấy lời khai của đương sự, nhân chứng hoặc xem xét tài sản đó;
+ Trong quyết định uỷ thác thu thập chứng cứ cần tóm tắt vụ kiện, nêu đầy đủ các câu hỏi cần đặt ra cho đương sự hoặc nhân chứng, hoặc những yêu cầu cụ thể về xem xét tại chỗ tài sản tranh chấp;
+ Toà án được uỷ thác thu thập chứng cứ có thể qua lời khai của đương sự, nhân chứng mà thấy cần đặt các câu hỏi khác thì có quyền đặt những câu hỏi cần thiết.
• Thẩm phán chỉ có thể tự mình tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ sau đây:
- Lấy lời khai của người làm chứng khi xét thấy cần thiết (khoản 1 Điều 87 BLTTDS);
- Đối chất khi xét thấy có mâu thuẫn trong các lời khai của các đương sự (khoản 1 Điều 88 BLTTDS);
- Định giá tài sản trong trường hợp các bên thoả thuận mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí (điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS).
• Khi đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ về vụ việc mà họ yêu cầu Toà án giải quyết, Thẩm phán phải lập Biên bản về việc giao nhận chứng cứ với đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 điều 84 BLTTDS.
• Khi yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ cần nêu cụ thể những chứng cứ cần giao nộp bổ sung.
1.2.2.Tiến hành hoà giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
• Thẩm phán phải tiến hành hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án (trừ những vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được).
• Những vụ án không được hoà giải (khoản 1 Điều 181 BLTTDS):
- Vụ án dân sự yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước do có hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại như: hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tham ô tài sản, huỷ hoại, cố ý làm hư hỏng tài sản Nhà nước...
- Những trường hợp có liên quan đến tài sản của Nhà nước nhưng vẫn tiến hành hoà giải được. Ví dụ Ngân hàng cho nông dân vay vốn để sản xuất, do điều kiện khách quan nên đã bị thua lỗ, người nông dân không trả được tiền vay và lãi cho ngân hàng. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, Toà án vẫn có thể tiến hành hoà giải để Ngân hàng giảm lãi suất cho người vay tài sản.
- Vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội
• Những vụ án không tiến hành hoà giải được:
- Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
- Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.
- Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
• Thủ tục hoà giải: Toà án phải triệu tập tất cả những người có liên quan đến việc giải quyết vụ án tham dự phiên hoà giải. Nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến tất cả các đương sự trong vụ án mà có đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà giải để mở lại phiên hoà giải khác có mặt tất cả các đương sự.
• Nếu trong vụ án có nhiều quan hệ pháp luật mà quan hệ pháp luật này liên quan đến đương sự này, quan hệ pháp luật kia liên quan đến đương sự khác và việc giải quyết quan hệ pháp luật đó chỉ liên quan đến các đương sự có mặt không liên đến các đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hoà giải những vấn đề có liên quan đến các đương sự có mặt.
• Toà án xem xét các yêu cầu cụ thể của đương sự trong vụ án phải giải quyết để tiến hành hoà giải từng yêu cầu theo thứ tự hợp lý.
• Khi tiến hành hoà giải, ngoài việc tuân thủ nguyên tắc quy định tại Điều 184 BLTTDS, tuỳ theo các quan hệ pháp luật Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình mà tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành cho các đương sự biết (như mối quan hệ giữa các đương sự, việc chịu án phí...). Thẩm phán không được nói trước với các đương sự ai sai, ai đúng ở chỗ nào hoặc nếu các đương sự không thoả thuận được, thì hướng xét xử của Toà án như thế nào...
• Thẩm phán cần ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
• Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó, thì về nguyên tắc chung Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Nếu vì trở ngại khách quan mà Thẩm phán không ra quyết định được, thì Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán khác ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
• Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (các quan hệ pháp luật, các yêu cầu của các đương sự trong vụ án) và cả về án phí. Trong trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nhưng không thoả thuận được với nhau về trách nhiệm phải chịu án phí hoặc mức án phí, thì Toà án không công nhận sự thoả thuận của các đương sự mà tiến hành mở phiên toà để xét xử vụ án.
• Trong trường hợp các đương sự chỉ thoả thuận được với nhau về việc giải quyết một phần vụ án, còn phần khác không thoả thuận được, thì Toà án ghi những vấn đề mà các đương sự thoả thuận được và những vấn đề không thoả thuận được vào biên bản hoà giải theo quy định tại khoản 1 Điều 186 BLTTDS và tiến hành ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trừ trường hợp có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án.
1.2.3. Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
• Thẩm phán cần áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời (nếu có yêu cầu và có căn cứ) hoặc không có yêu cầu của đương sự nhưng theo quy định của pháp luật thì Thẩm phán cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
• Thẩm quyền quyết định, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên toà do một Thẩm phán xem xét, quyết định; tại phiên toà do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
• Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận đơn yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1 Điều 99 BLTTDS (đơn yêu cầu phải theo đúng quy định tại Điều 117 BLTTDS):
- Nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 BLTTDS, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
- Nếu tại phiên toà thì Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 BLTTDS, nếu không chấp nhận Hội đồng xét xử không phải ra quyết định, chỉ thông báo công khai tại phiên toà nêu rõ lý do và ghi vào biên bản phiên toà.
• Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 99 BLTTDS, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
• Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 BLTTDS trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
• Việc thay đổi, áp dụng bổ sung hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo quy định tại Điều 117 và Điều 121, Điều 122 BLTTDS.
1.2.4. Nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
Thẩm phán tiến hành xác định chứng cứ theo đúng hướng dẫn tại mục II Nghị quyết số 04/2005/NQ- HĐTP ngày 17- 9- 2005.
1.2.5. Các quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tùy từng trường hợp Thẩm phán cần ra một trong các quyết định sau:
• Công nhận sự thoả thuận của các đương sự (hoà giải thành).
• Tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
• Đình chỉ giải quyết vụ án.
• Quyết định đưa vụ án ra xét xử
1.2.6 Tạm đình chỉ giải quyết vụ án
Thẩm phán cần ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án nếu có căn cứ quy định tại Điều 189 BLTTDS.
Đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày ra QĐ, Thẩm phán phải gửi QĐ đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
1.2.7. Đình chỉ giải quyết vụ án
• Thẩm phán phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nếu có các căn cứ quy định tại Điều 192 BLTTDS.
• Đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra QĐ, Toà án phải gửi QĐ đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
1.2.8. Quyết định đưa vụ án ra xét xử
• Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
• Thẩm phán giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bộ phận chức năng của Tòa án để gửi cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp sau khi ra QĐ.
• Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
1.3. Phiên tòa sơ thẩm
1.3.1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa
• Trước khi khai mạc phiên tòa, Thư ký Tòa án phổ biến nội quy phiên tòa, kiểm tra sự có mặt của những người được triệu tập tham gia phiên tòa, nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do.
• Cần yêu cầu mọi người trong phòng đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
• Sau khi đọc xong quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đề nghị mọi người ngồi xuống và Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người tham gia phiên tòa ; nếu có người vắng mặt thì nêu rõ lý do.
• Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của các đương sự, phổ biến quyền và nghĩa vụ của họ và những người tham gia tố tụng khác (theo quy định tại các điều tương ứng tại Chương VI BLTTDS).
• Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.
• Xem xét, quyết định việc hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt.
• Xem xét quyết định áp dụng những biện pháp cần thiết để những người làm chứng, đương sự không nghe được lời khai của nhau và tiếp xúc với những người có liên quan.
1.3.2. Thủ tục hỏi tại phiên tòa
Trước khi bước vào thủ tục hỏi tại phiên toà, Thẩm phán hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự trong trường hợp đương sự thoả thuận được với nhau tại phiên toà về việc giải quyết vụ án, mà thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội (Điều 220 BLTTDS).
1.3.3. Hỏi các đương sự về yêu cầu của họ
• Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu.
• Trong trường hợp đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu đó là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.
• Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn
• Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
1.3.4. Nghe lời trình bày của các đương sự
• Chủ toạ phiên tòa hỏi nguyên đơn trước, sau đó là bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập về việc có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện (đối với nguyên đơn), yêu cầu phản tố (đối với bị đơn), yêu cầu độc lập (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập) hay không.
• Nghe lời trình bày của các đương sự về các yêu cầu của họ theo trình tự quy định tại các Điều 221, 223, 224, 225, 226 BLTTDS.
• Hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án, nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình hoặc có thể cùng với các đương sự đến xem tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên toà được trong các trường hợp quy định tại các Điều 227, 228, 229 BLTTDS, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 227 BLTTDS.
• Chủ toạ phiên toà yêu cầu người giám định trình bày kết luận về vấn đề được giao giám định. Trong trường hợp người giám định không có mặt tại phiên toà thì chủ toạ phiên toà công bố kết luận giám định.
• Chủ toạ phiên toà hỏi người làm chứng theo quy định tại Điều 226 BLTTDS.
• Kết thúc việc xét hỏi tại phiên toà nếu thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ, sau khi chủ toạ phiên toà hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác mà họ không có yêu cầu hỏi gì thêm. Nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ toạ tiếp tục việc hỏi.
1.3.5. Hỏi từng đương sự, từng vấn đề
• Chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến Hội thẩm nhân dân, sau đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự và những người tham gia tố tụng khác; trường hợp có Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì Kiểm sát viên hỏi sau đương sự.
• Trường hợp có nhiều nguyên đơn thì hỏi riêng từng nguyên đơn; chỉ hỏi những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hoặc nguyên đơn trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với lời khai trước đó.
1.3.6. Tranh luận tại phiên tòa
• Không được hạn chế thời gian tranh luận, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.
• Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ toạ phiên toà đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
• Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần phải xem xét thêm chứng cứ thì HĐXX quyết định trở lại việc hỏi, khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
1.3.7. Nghị án
• Các thành viên của HĐXX phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến đó bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
• Khi nghị án chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà, kết quả hỏi tại phiên toà và xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên.
• Khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của HĐXX. Biên bản này phải được các thành viên HĐXX ký tên tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
• Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, đòi hỏi thời gian nghị án dài, HĐXX quyết định thời gian nghị án nhưng không quá 5 ngày làm việc, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà.
• HĐXX phải thông báo cho những người có mặt tại phiên toà và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà biết ngày, giờ và địa điểm tuyên án; nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì HĐXX vẫn tiến hành tuyên án.
1.3.8. Công việc sau phiên toà
• Sau khi tuyên án xong không được sửa chữa, bổ sung bản án trừ trường hợp phát hiện lỗi về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. Việc sửa chữa, bổ sung này phải tuân theo đúng quy định tại Điều 240 BLTTDS.
• Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên toà, TA cấp trích lục bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện.
• Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, TA phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.
• Nếu đương sự có kháng cáo theo đúng quy định tại Điều 245, khoản 1 Điều 244 và TA đã kiểm tra đơn kháng cáo theo quy định tại Điều 246 của Bộ luật này; hoặc có kháng nghị của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 250, 251, 252 của Bộ luật này, TA phải thông báo cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nếu họ không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí phúc thẩm và thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp, đương sự có liên quan đến kháng cáo biết về việc kháng cáo.
• Hết thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 248 của Bộ luật này, người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì được coi là từ bỏ việc kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
• Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu người kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm hoặc người kháng cáo nộp cho TA cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, TA cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét